Chiềng Ngần là một trong 12 xã, phường của thành phố Sơn La, cách trung
tâm thành phố 15km về phía tây bắc. Phía đông và đông nam giáp 2 xã: Mường Bú
(huyện Mường La), Mường Bằng (huyện Mai Sơn); phía tây giáp các phường: Quyết
Tâm, Quyết Thắng và Chiềng Sinh (thành phố Sơn La); phía nam giáp xã Chiềng
Mung (huyện Mai Sơn); phía bắc giáp xã Chiềng Xôm, phường Quyết Thắng, phường
Chiềng An (thành phố Sơn La).
Nằm ở độ cao trung bình 670m so với mực nước biển, xung quanh được bao bọc
bởi những dãy núi đá vôi trùng điệp, xen lẫn với gò đồi, hang động, bãi bằng
làm cho địa hình trở nên đa dạng, chia làm 2 khu vực chính: đồi núi cao từ
600-900m phân bố ở hầu hết các nơi trên địa bàn, tập trung ở ranh giới với xã
Mường Bú, phường Chiềng Sinh; một số phiêng, bãi hình thành theo một dải chạy dọc
giữa địa bàn xã, điển hình tại các bản Nặm Tròn, Ca Láp, Nà Ngùa với độ cao
trên dưới 600m.
Tổng diện tích tự nhiên của xã Chiềng Ngần là 4.584ha, trong đó có 2.339
ha đất lâm nghiệp, 1.433 ha đất sản xuất nôn nghiệp, còn lại là các loại đất
khác. Địa bàn xã có các nhóm đất chính: feralit đỏ nâu trên đá vôi, độ phì tự
nhiên khá, chiếm 29,01%; ferarit mùn vàng đỏ trên đá sét, hàm lượng mùn trung
bình, tầng đất dày, chiếm 35,99%; ferarit mùn vàng nhạt trên đá cát, hàm lượng
mùn thấp, tầng đất mỏng, tập trung trên dãy núi cao, độ dốc trên 25o,
chiếm 24,29%; còn lại là các đất dốc tụ, đất thung lũng.
Khí hậu ở Chiềng Ngần mang đặc trưng của vùng nhiệt đới, chia làm 2 mùa
rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, tập trung vào các tháng 6,7,8 chiếm tới
90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Nhiệt
độ trung bình năm 20,5oC, tổng số giờ nắng trung bình 1.950 giờ/năm;
tháng 12 và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, nhiều thời điểm xuất hiện xương muối.
Lượng mưa bình quân 1.445 mm/năm, độ ẩm trung bình khoảng 82%.
Do địa hình phức tạp, xã không có sông, suối; nguồn nước chủ yếu là nước
mưa và nước ngầm. Địa bàn xã có nhiều hồ: Bản Híp (bản Híp), Nong La (bản Nong
La), Nậm Nài (bản Pát), Nong Ngần (bản Nà Ngần), Khuẩy Khoang, Nong Bông, Cò Nò
(bản Muông), Phưa, Khương (bản Ỏ), Nà Lo (bản Nà Lo), Ta Dửn (bản Dửn)… có vai
trò tích trữ, cung cấp nước vào mùa khô phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và
sinh hoạt. Sự thiếu vắng của hệ thống sông suối là khó khăn đối với Chiềng Ngần.
Địa phương thường xuyên ở tình trạng thiếu nước, đặc biệt vào mùa khô, ảnh hưởng
rất lớn đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.